Tin tức sự kiện tiêu biểu

MIẾU NHÀ BÀ NGÔ CHI LAN- NỮ THI SĨ ĐẦU TIÊN CỦA THƠ CA VIỆT NAM
Ngày đăng 23/02/2023 | 02:09  | Lượt truy cập: 102

NGÔ CHI LAN- NỮ THI SĨ ĐẦU TIÊN CỦA THƠ CA VIỆT NAM

Phù Lỗ- vùng đất giàu truyền thống cách mạng và thấm đẫm chất thi ca, nơi đã nuôi dưỡng, vun đắp tài năng của nữ sĩ Ngô Chi Lan- người phụ nữ nức tiếng tài năng về thơ văn, từng được vua Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) phong chức Phù gia nữ học sĩ và giao cho phụ trách việc dạy đạo đức, lễ nghi, truyền đạt văn hóa cho cung nhân trong triều. Bà là nhà thơ nữ đầu tiên và có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thi ca Việt Nam.

Tên thật của bà là Ngô Chi Lan, tự Quỳnh Hương, còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, sống vào khoảng giữa thế kỷ XV, tại làng Phù Lỗ, xã An Lạc, huyện Kim Hoa, xứ Phúc Yên (nay là xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn- HN). Ngô Chi Lan là con gái của Thanh Quốc công Ngô Khế, một công thần triều Lê. Ông là em trai Quang thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị  Ngọc Dao (thứ phi của Vua Lê Thái Tông) và là cậu ruột của vua Lê Thánh Tông. Lúc còn nhỏ Ngô Chi Lan thường được theo bà Ngọc Dao vào cung Khánh Phương hầu hạ.

Bấy giờ, bà Nguyễn Thị Lộ, vợ thứ Nguyễn Trãi, lấy chồng đã lâu mà không có con, bà được Ngô Thị Ngọc Dao giới thiệu cháu gái Ngô Chi Lan cho làm con nuôi, đổi tên gọi là Nguyễn Hạ Huệ. Năm 1442, khi xẩy ra thảm án Lệ Chi Viên, vợ chồng Nguyễn Trãi bị xử tội chết, Ngô Chi Lan được bố trí trốn về làng Phù Lỗ lánh nạn. Sau này bà lấy Giáo thụ Phù Thúc Hoành, người làng Phù Xá (nay thuộc xã Phù Minh, huyện Sóc Sơn), một bậc tài danh làm quan viện Hàn lâm đến chức Đông các Đại học sĩ, từng giảng dạy Kinh dịch ở Quốc Tử giám.

Đến khi Thái tử Hạo (con của thứ phi Ngọc Dao) lên ngôi vua, bắt đầu triều đại Lê Thánh Tông (1460 -1497), sau khi ban chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi đã phong Ngô Chi Lan làm Phù Gia nữ học sĩ để tiếp tục công việc của mẹ nuôi, dậy lễ nghi và văn thơ cho các cung nhân trong triều.  Bản thân Chi Lan lúc bấy giờ nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, rất tài giỏi thi ca, từ khúc, lại làu thông về kinh sử và viết chữ đẹp nên không những được Thái hậu vô cùng yêu chiều mà nhà vua Lê Thánh Tông cũng rất đỗi mến mộ, ban hiệu là Kim Hoa nữ học sĩ và cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn. Tuy là phụ nữ, lại không phải là thành viên Tao đàn Nhị thập bát tú, nhưng vì thơ văn nức tiếng, được nhà vua là Tao đàn Nguyên soái ưa chuộng, Chi Lan thường được dự các buổi bình thơ, được ưu ái ngâm các tác phẩm mới sáng tác của mình. Mỗi khi nhà vua đi du ngoạn hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút theo hầu. Vì có biệt tài sáng tác, xuất khẩu thành thơ nên khi phóng bút ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một câu, một chữ.

Tương truyền, một buổi tối, bà được Ngô Thái hậu cho tháp tùng du ngoạn trên núi Vệ Linh (tức núi Sóc, thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn ngày nay). Dạt dào trước sự tích Đức Thánh Gióng, đệ nhị Tứ bất tử trên thần điện của người Việt, nữ sĩ cảm tác nên bài tứ tuyệt:

             Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn

              Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian

              Ngựa sắt lên trời tên rạng sử

             Anh hùng còn mãi với giang san.

Bài thơ ra đời, ngay lập tức không những mọi người ở trong nội cung đều biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài phố thị, ai cũng ca ngợi và xếp vào hạng tuyệt tác. Nhà vua cũng ngỏ lời khen bà và ban tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. Bài thơ đó nay vẫn được lưu giữ trong đền Sóc. Tên tuổi Phù gia nữ học sĩ Ngô Chi Lan ngày càng tỏa sáng, tiếng tăm ngày càng vang xa, khiến tao nhân mặc khách thời đó vô cùng kính nể.

Về sau, Ngô Chi Lan về nghỉ và mất ở làng Phù Lỗ. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ Nữ học sĩ Ngô Chi Lan, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ bà ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình nữ sĩ (nay thuộc thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) với bức hoành phi đề là “Kim Hoa nữ học sĩ từ” (Đền thờ nữ học sĩ đất Kim Hoa), nhân dân gọi với tên dân dã nhưng kính trọng là “Miếu Nhà Bà” hay “Miếu Bà”. Đền thờ đã qua mấy lần trùng tu, phục dựng, hiện nay là một ngôi nhà 3 gian thấp nhỏ, nằm khiêm tốn gần ngôi đình làng Đoài. Phía trước Đền có một tấm bia đá cổ, có lẽ được dựng từ rất lâu vì chữ khắc trên bia đã bị năm tháng bào mòn, hầu như không còn chữ nào đọc được. Mộ bà đặt ở cánh bãi Tây Nguyên, bên kia sông Cà Lồ, cách Miếu Nhà Bà chừng 1 Km, thuộc xóm Tiên, xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh. Trước năm 1961, khu này thuộc địa phận xã Phù Lỗ, sau chuyển về thuộc xã Nguyên Khê, Đông Anh. Nhân dân địa phương lấy ngày 17 tháng 9 Âm lịch làm ngày giỗ Nữ học sĩ Ngô Chi Lan. Hàng năm, đến dịp này nhân dân trong vùng lại kỷ niệm ngày giỗ bà, tổ chức lễ hội trang trọng và rất vui. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày: 15, 16, 17 tháng Chín Âm lịch, khách thập phương về dự rất đông.

Sinh thời Ngô Chi Lan sáng tác rất nhiều thơ, phần ứng khẩu, phần phóng bút… nhưng vì đa số do không được gom lại thành tập, nên sớm bị thất lạc. Bà có tập thơ duy nhất là tập thơ chữ Hán có nhan đề “Mai trang tập” (Tập thơ vườn mai), nhưng rất tiếc sau cũng đã thất truyền. Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới mười bài in rải rác trong một số sách văn học sử.

Thơ của Ngô Chi Lan được các nhà phê bình văn học nhận xét là mang bản sắc riêng, không khuôn sáo gò ép, đẹp cả ý và lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Bà là một tài thơ của nửa sau thế kỉ 15 được người đương thời đánh giá cao.

Có thể coi Ngô Chi Lan là nhà thơ nữ đầu tiên của Việt Nam, có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển thơ ca của đất nước và để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học viết nước nhà. Tài năng thơ ca cũng như sự nghiệp văn chương của bà thực sự là một di sản văn hoá lớn, là nguồn cảm hứng, ngọn lửa tỏa sáng, dẫn dắt những tài năng của vùng đất Phù Lỗ giàu truyền thống lịch sử- văn hóa, của Sóc Sơn huyền thoại và Thăng Long ngàn năm văn hiến.

 

 

Bản đồ hành chính